"Ngôi Lời đã trở nên xác thịt,
ở giữa chúng ta, đầy ơn và lẽ thật; chúng ta đã ngắm xem sự vinh hiển của Ngài,
thật như vinh hiển của Con một đến từ nơi Cha” (Giăng 1:14)
S
|
ứ đồ Giăng là một trong ba sứ đồ
thân cận nhất với Chúa Jesus, từng dựa vào ngực của Ngài, và tự xưng mình là “người
mà Ngài yêu” (Giăng 13:23). Có lẽ vì thế ông đã thấu hiểu được chiều sâu của lẽ
thật về sự nhập thể của Đức Chúa Trời Ngôi Hai. Trong bốn sách Phúc Âm:
Ma-thi-ơ, Mác, Lu-ca, và Giăng, chỉ một mình Phúc Âm Giăng trình bày lẽ thật
này rõ ràng và sống động hơn hết. Tư tưởng về sự cư trú của Ngôi Lời ở giữa con
người xuất phát từ tư tưởng Shekinah, nói
đến sự cư trú của Đức Chúa Trời ở giữa dân sự của Ngài trong Cựu Ước.[1]
Để có thể hiểu được tư tưởng thần học về sự nhập thể nằm ẩn tàng bên trong Phúc
Âm Giăng nói chung và trong Giăng 1:14 nói riêng, chúng ta cần quay trở lại với
bối cảnh của tư tưởng Shekinah trong Cựu
Ước.
Trong Giăng 1:14 sứ đồ Giăng dùng
động từ “ở giữa” (evskh,nwsen) để trình
bày về Shekinah của Cựu Ước tái hiển
hiện trong Tân Ước.[2] Giăng nối kết tư tưởng về
sự cư trú trong xác thịt của Đấng Christ với tư tưởng Shekinah rất quen thuộc đối với người Do-thái, nói đến sự hiện diện của Đức Chúa Trời ở giữa dân sự của Ngài. Thật
ra, từ Shekinah không xuất hiện trong
kinh Cựu Ước. Lần đầu tiên người ta tìm thấy từ này trong các bản văn được các
tác giả Targum sử dụng, trong cộng đồng Do-thái tại Ba-by-lôn vào thế kỷ thứ nhất
S.C.[3]
Từ này được dùng như là thể biến cách rút gọn (periphrasis) khi các tác giả muốn
nói về sự hiện diện của Đức Chúa Trời giữa dân sự của Ngài. Đó là sự hiện diện
đặc biệt, được nơi chốn hoá, để nói đến sự hiện diện quyền năng của Chúa vào một
thời điểm và nơi chốn cụ thể. Shekinah
đối với dân sự của Chúa ngày xưa không gì khác hơn là sự hiện diện trực tiếp và
thần hựu của Ngài giữa họ.
Trong thời gian dân Y-sơ-ra-ên ra
khỏi Ai-cập, Shekinah không phải là sự
toả sáng của trụ mây, nhưng là nguyên nhân chính yếu của sự chiếu sáng. Trụ mây
và trụ lửa dẫn đường cho dân sự được xem như là “người chăn” hướng dẫn bầy
chiên, mang ý nghĩa dẫn dắt lẫn bảo vệ. Shekinah
luôn luôn được đồng nhất hoá với chính Đức Gia-vê (Yahweh), nhấn mạnh đến sự hiện
diện đặc biệt của Chúa với dân sự của Ngài. Vì thế, sự chiếu sáng của trụ mây
chỉ là sự phát sáng của Shekinah. Sự
biểu lộ bên ngoài của Shekinah được gọi
là sự “vinh hiển,” theo các tác giả của kinh Tân Ước, là doxa (do,xa) trong ngôn ngữ
Hi-lạp.[4]
Ngoài ra, sự hiện diện của “thiên sứ của Đức Chúa Trời” cũng được hiểu như là sự
hiện diện của chính Đức Gia-vê; nghĩa là, đó chính là Shekinah.[5]
Toàn bộ lịch sử của Shekinah là lịch
sử của một Đức Chúa Trời Hằng hữu, bày tỏ sự hiện diện của Ngài cho dân sự của
Ngài. Đức Chúa Trời đã chọn họ và hiện diện giữa họ. Đức Gia-vê kết ước với dân
sự của Ngài và sử dụng Môi-se như là công cụ truyền thông của Ngài. Sự hiện diện
của Đức Gia-vê được nơi chốn hoá khi Ngài truyền cho Môi-se dựng một lều tạm
(tabernacle/tent) cho sự hiện diện của Ngài, hầu cho chính Ngài có thể cư trú
giữa dân sự và đồng hành với họ. Môi-se cũng được truyền bảo đóng một hòm giao
ước (the ark of covenant) đúng theo sự hướng dẫn của Chúa và đặt trong lều tạm
(Xuất 25:22). Đức Chúa Trời siêu việt đã “nơi chốn hoá” chính Ngài bằng sự hiện
diện giữa hai chê-ru-bim trên hòm giao ước. Hòm giao ước không trở nên thánh vì
những gì chứa đựng bên trong (hai bảng luật pháp, ma-na, cây gậy của A-rôn), bèn
là sự hiện diện (Shekinah) của Đức
Gia-vê trên hòm. Lịch sử của sự di chuyển và đồng hành của Shekinah với dân sự lúc bấy giờ trở thành lịch sử của hòm giao ước
mà dân Y-sơ-ra-ên mang theo với họ trong suốt hành trình vào đất hứa. Đức Chúa
Trời bày tỏ sự hiện diện của Ngài trên hòm giao ước, không nhằm mục đích được sử
dụng như “lá bùa hộ mạng.” Thay vào đó, nó phải là xu hướng của tấm lòng dân sự
phải phù hợp với sự bày tỏ bên ngoài của niềm tin bên trong của nọ.
Sau những năm tháng lang thang
rày đây mai đó, hòm giao ước được định cư tại Giê-ru-sa-lem. Dân Y-sơ-ra-ên học
biết rằng Đức Gia-vê không bị trói buộc vào một chỗ là đền thờ do Sa-lô-môn xây
dựng. Chính đền thờ đó cũng bị phá huỷ. Khi dân sự của Chúa từ khước sự hiện diện
của Ngài (Shekinah), thì Ngài cũng ngoảnh
mặt khỏi họ.[6] Thành Giê-ru-sa-lem bị bao
vây. Dân Y-sơ-ra-ên bị lưu đày viễn xứ. Khi dân sự của Chúa bị dẫn vào chốn lưu
đày tại Ba-by-lôn, tiên tri Giê-rê-mi đã đem giấu hòm giao ước của Chúa trong một
hang động trên núi, nơi mà chính Môi-se đã tận mắt thấy Ngài.[7]
Sự hiện diện của Chúa đã lìa bỏ dân Y-sơ-ra-ên để rồi trở lại với họ trong một
phương cách tốt đẹp hơn. Ngay trong chốn lưu đày, sự hiện diện của Ngài vẫn ở với
họ cách vô hình; và ngày đêm họ trông chờ sự trở lại của sự hiện diện của Ngài.
Bấy giờ, dân Y-sơ-ra-ên mong mỏi xây lại đền thờ Giê-ru-sa-lem, hầu cho một lần
nữa sự hiện diện của Ngài tái cư trú giữa họ. Nhưng tiên tri Giê-rê-mi đã cho
thấy một viễn ảnh tốt đẹp hơn về sự hiện diện của Chúa ở giữa dân sự của Ngài:
Đức Giê-hô-va phán: “Nầy, những
ngày đến, bấy giờ ta sẽ lập một giao ước mới với nhà Y-sơ-ra-ên và với nhà
Giu-đa. Giao ước nầy sẽ không theo giao ước mà ta đã kết với tổ phụ chúng nó
trong ngày ta nắm tay dắt ra khỏi đất Ê-díp-tô, tức giao ước mà chúng nó đã phá
đi, dầu rằng ta làm chồng chúng nó, Đức Giê-hô-va phán vậy.” Đức Giê-hô-va
phán: “Nầy là giao ước mà ta sẽ lập với nhà Y-sơ-ra-ên sau những ngày đó. Ta sẽ
đặt luật pháp ta trong bụng chúng nó và chép vào lòng. Ta sẽ làm Đức Chúa Trời
chúng nó, chúng nó sẽ làm dân ta” (Giê-rê-mi 31:31-33)
Sự trở lại của Shekinah trong Giao Ước Mới (New
Covenant) được đặc tính hoá bằng yếu tố thuộc linh bên trong, không phải theo
xác thịt hay nơi chốn bên ngoài. Những ai có đức tin nơi Chúa Jesus Christ có
thể gia nhập vào dân Y-sơ-ra-ên Mới (New Israel) tức Hội Thánh của Ngài. Chương
cuối cùng của sách tiên tri Ê-sai cho chúng ta thấy sự đầy trọn của sự hiện diện
được bày tỏ như thế nào. Sự trở lại của Shekinah
là mối liên kết giữa Giao ước cũ (Cựu Ước) và Giao ước mới (Tân Ước). Đó chính
là Đức Chúa Trời Ngôi Hai nhập thể thành người mà sứ đồ Giăng mô tả: “Ngôi Lời đã trở nên xác thịt, ở giữa
chúng ta.” Ông dùng cách chơi chữ của từ Shekinah
để trình bày cho chúng ta biết Ngôi Lời nhập thể, tức là Đấng Christ, cư
trú ở giữa chúng ta.[8]
Các tác giả
các sách Phúc Âm và Thư Tín trong kinh
Tân Ước được cảm thúc bởi Chúa Thánh Linh viết tác phẩm của mình vào thời điểm
các học giả Targum Do-thái sử dụng rộng rãi từ ngữ Shekinah để nói đến quan niệm truyền thống về sự hiện diện đặc biệt
của Đức Chúa Trời ở giữa dân sự của Ngài.[9] Vì thế, khi sứ đồ Giăng đề cập đến sự nhập thể của Đấng Christ,
người ta đều hiểu rằng Shekinah đã
tái hiển hiện trong lịch sử của nhân loại. Chính Đấng Christ trở nên xác thịt
là sự hoàn nghiệm trọn vẹn niềm hy vọng của dân Do-thái mà đã một lần họ cảm nhận
sâu xa về sự hụt hẫng khi Shekinah đã
lìa bỏ họ và quăng họ vào trong chốn lưu đày. Một lần nữa, Shekinah đã trở lại và làm sống lại niềm hy vọng đã bị chôn vùi khi
quân Ba-by-lôn đến vây chiếm thành Giê-ru-sa-lem, hòm giao ước bị biến mất.
Nhân vật Jesus
ở Na-xa-rét chính là Đấng Christ, sự tái hiển hiện của sự hiện diện của Đức
Gia-vê (Shekinah) cư trú giữa hai chê-ru-bim
trên hòm giao ước: “Ngôi Lời đã trở nên xác thịt ở giữa chúng ta, đầy ơn (hay ân
sủng = charis) và lẽ thật.” Như trong
Cựu Ước, Giăng đã liên kết sự vinh hiển (doxa)
với Shekinah: “chúng ta đã ngắm xem sự
vinh hiển của Ngài, thật như vinh hiển của Con một đến từ nơi Cha.” Bất cứ khi nào Shekinah biểu lộ, nó phát lộ sự sáng rực rỡ của mình, gọi là sự
vinh hiển. Sự vinh hiển của Đấng Christ được biểu lộ như là sự sáng chói của sự
sự hiện diện của Ngài vì trong Ngài “đầy ơn và lẽ thật.” Trong sự nhập thể,
Chúa Jesus Christ đã mang đến cho thế gian sự vinh hiển của Đức Chúa Trời bởi
ân sủng cứu độ mà Cha đã ban cho loài người hư mất. Vì thế, sứ đồ Phao-lô liên
kết tư tưởng của ân sủng cứu độ (charis)
và sự vinh hiển (doxa) là sự sáng
chói của Shekinah. Khi con người phạm
tội, họ thiếu mất sự sáng chói của Shekinah,
tức sự vinh hiển: “Vì mọi người đều đã phạm tội, thiếu mất sự vinh hiển của Đức
Chúa Trời” (Rô-ma 3:23). Chỉ khi nào tội lỗi được tha thứ và cất bỏ bởi công
lao cứu chuộc của Chúa Jesus Christ, sự vinh hiển là sự sáng chói rực rỡ của Shekinah sẽ được khôi phục hay tái hiển hiện trong đời sống người tin Chúa
Jesus.
Shekinah tái hiển hiện trong sự nhập thể
của Chúa Jesus không chỉ tạm thời như trong Cựu Ước bèn là vĩnh cửu, không chỉ là
sự cư trú bèn là chia sẻ sự sống trong sinh hoạt đời thường của con người. Sự
nhập thể đã thay đổi toàn diện Ngôi Hai của Đức Chúa Trời, phân chia rõ rệt giữa
tiền nhập thể và hậu nhập thể của Ngài bằng việc mang lấy cho mình nhân tánh đời
đời (humanity). Sự nhập thể của Đấng Christ chẳng những là sự bảo đảm về sự dẫn
dắt và bảo vệ của Ngài đối với cá nhân tín hữu và Hội Thánh của Ngài, nhưng còn
đem vào trong thân xác con người một nguyên lý sống mới, một kinh nghiệm mới, cho
nó được dự phần vào trong bản tánh thần thượng của Đức Chúa Trời bởi sự tái tạo
(2 Phi-e-rơ 1:4), và làm cho nó sống lại với thân thể vinh hiển trong ngày sau
cùng (Rô-ma 8:11).
Ý nghĩa của
danh xưng Em-ma-nu-ên (Ma-thi-ơ 1:23)
không chỉ được hiểu là “Đức Chúa Trời ở cùng chúng ta” nhưng đúng hơn là Đức Chúa Trời cư trú trong thân xác và chia sẻ
kinh nghiệm đời sống con người. Trong hiện tại, làm thế nào con người có thể thấy
được sự vinh hiển của Cha? Họ chỉ tìm thấy sự biểu lộ của Shekinah và doxa của Đức
Chúa Trời Hằng hữu đời đời trong chính Ngôi Lời Nhập thể và trong từng cuộc đời
của những ai đã tiếp nhận Ngài (Giăng 1:12). Đấng Christ bước vào trần gian để
chia sẻ kinh nghiệm đau thương và rách nát là hậu quả của sự sa ngã, để rồi tái
tạo và biến họ trở thành đền thờ của Chúa Thánh Linh ngự trị (1 Cô-rinh-tô
6:19). Shekinah trong sự nhập thể của
Đấng Christ vượt trổi và tuyệt vời hơn nhiều so với sự hiểu biết về Shekinah nằm trong sự hiểu biết của người
Do-thái; nó bao trùm hiện tại và cả cõi đời đời. Phước hạnh của sự nhập thể này
nằm ngoài giới hạn tri thức con người. Chỉ khi nào bước vào sự hiện diện mặt đối
mặt với Chiên Con, Đấng Thánh lâm phàm, chúng ta mới có thể hiểu biết và nếm trải
phước hạnh đầy trọn của nó.
[1]
Shekinah (phát âm: she-KI-nah hay
SHEK-i-nah) là phiên âm của từ Hi-bá-lai (שכינה), không xuất hiện trong kinh Cựu Ước nhưng trong nhiều bản văn
Do-thái, chỉ về sự hiện diện (presence) của Đức Chúa Trời. Trong toàn bộ Kinh
Thánh, ý tưởng này diễn tả sự đến gần của Đức Chúa Trời hoặc trong thân vị, đồ
vật (hòm giao ước), hay sự vinh hiển (glory) của Ngài. Nó thường được dùng kết
hợp với sự vinh hiển để chỉ về sự ngự trị của sự hiện diện vinh hiển của Đức
Chúa Trời (God’s shekinah glory).
[2]
Từ evskh,nwsen (eskēnōsen) ra từ động từ skhno,w (skēnoō) và
danh từ skh,nwma (skēnōma), có nghĩa là “cư trú” (dwell) hay “đóng trại/giăng trại”
(spread a tent). Động từ này được sứ đồ Giăng dùng trong sách Khải Huyền để chỉ
về sự hiện diện của Chiên Con với mục đích bảo vệ và che chở dân sự của Ngài:
“Đấng ngồi trên ngôi sẽ che chở chúng dưới trại Ngài” (Khải 7:5); và Chiên Con
chính là đền tạm của Đức Chúa Trời ở giữa loài người: “Nầy, đền tạm của Đức Chúa Trời ở giữa loài người! Ngài sẽ ở với
chúng, và chúng sẽ làm dân Ngài; chính Đức Chúa Trời sẽ ở với chúng” (Khải 21:3).
[3]
Targum (Hebrew: תרגום) là bản dịch Kinh Thánh Hi-bá-lai sang tiếng
A-ram do các Ra-bi Do-thái để dùng trong sự thờ phượng công cộng. Targumin (số
nhiều của Targum) không hẳn là bản dịch tự nghĩa của Kinh Thánh nhưng diễn ý và
có phần giải nghĩa kèm theo. Theo Kravitz, học giả chuyên về Midrash, khi Targum
dịch những lời hứa của Chúa ban cho dân sự của Ngài trong sách Xuất Ê-díp-tô ký
và Dân số ký, sử dụng động từ của tiếng A-ram ashraya, có nghĩa là “khiến cho yên nghỉ” và danh từ đã biến tố của
tiếng Hi-bá-lai shekinti, có nghĩa là
“Shekinah của Ta” (My Shekinah) = “sự hiện diện của Ta” (My
Presence). Theo cách dịch của những học giả Do-thái sách Các Vua và Ê-xê-chi-ên
sang tiếng A-ram, Shekinah là sự hiện
diện của Chúa nhưng chưa phải là chính Ngài. Tuy nhiên, thật khó để phân biệt
giữa Shekinah được hiểu là ẩn dụ
(metaphor) hay là nhân cách hoá (personification). Được trích trong The Eighteen Benedictions of Prayer (bản
văn Rabbinic Judaism được công nhận có thẩm quyền thuộc thế kỷ thứ nhất S.C.), “And may our eyes see Thy return in
mercy to Zion” và lời chúc phước “Praised Art Thou, O Lord, Who restores His
Presence shekanato to Zion,” cho thấy
Shekinah được hiểu vừa là sự hiện diện,
vừa là thân vị của Chúa (Leonard S. Kravitz, “Shekinah as God’s Spirit and
Presence,” The Living Pulpit [January-March
1996], 22).
Về phương diện con người, vì bị giới hạn bởi không
gian và thời gian, khi nói đến sự hiện diện của một người tại nơi nào đó, thường
được hiểu là sự hiện hữu của chính người đó (thân vị). Về phương diện Đức Chúa
Trời, vì Ngài là Đấng siêu việt và toàn tại, khi nói đến sự hiện diện của Chúa,
phải được hiểu vừa mang tính chất ẩn dụ và vừa nhân cách hoá: sự hiện diện của Ngài
lẫn thân vị của Ngài trong ý nghĩa bao quát nhất của nó.
[4]
Sứ đồ Giăng nối kết hai tư tưởng Shekinah và doxa với nhau để trình bày về sự nhập thể của Chúa Jesus: “Ngôi Lời đã trở nên xác thịt, ở giữa
chúng ta (shekinah), đầy ơn và lẽ thật;
chúng ta đã ngắm xem sự vinh hiển (doxa)
của Ngài, thật như vinh hiển của Con một đến từ nơi Cha” (Giăng 1:14).
[5]
“Thiên sứ của Đức Chúa Trời đã đi trước trại quân của dân
Y-sơ-ra-ên lộn lại đi sau; còn trụ mây vốn đi trước trại quân, lại ở về sau; trụ
mây đứng về giữa khoảng trại người Ê-díp-tô và trại dân Y-sơ-ra-ên, làm áng mây
tối tăm cho đàng nầy, soi sáng ban đêm cho đàng kia; nên trọn cả đêm hai trại
chẳng hề xáp gần nhau được” (Xuất 14:19-20).
[6]
Theo Targum, những hành động đạo đức khiến cho Shekinah ngự trị là: hiếu khách, nhân đức, chung thuỷ trong hôn
nhân, bác ái. Ngược lại, chính tội lỗi khiến cho Shekinah lìa bỏ dân sự của Ngài (trong phần Targum giải nghĩa tiên
tri Ê-sai 55:7 và Giê-rê-mi 33:5).
[7] Sau đó, tiên tri Giê-rê-mi sai một
vài người Do-thái đi đánh dấu cái hang nhưng họ không tìm thấy. Tiên tri đã quở
trách họ: “The place shall remain unknown until God gathers his
people together again and shows his mercy. Then the Lord will disclose these things,
and the glory of the Lord and the cloud will appear, as they were shown in the
case of Moses, and as Solomon asked that the place should be specially
consecrated” (2 Maccabees 2:7, 8). Khi đề cập đến “sự vinh hiển của Chúa và đám
mây sẽ xuất hiện” (the glory of the Lord and the cloud will appear), tiên tri
Giê-rê-mi muốn nói đến sự tái hiển hiện của Shekinah
trong Giao Ước Mới.
[8]
Trong cách viết và phát âm của từ skēnōma
liên hệ nó với từ sheken, tư tưởng rất
quen thuộc với mọi người Do-thái về Shekinah,
chỉ về sự cư trú của Đức Chúa Trời ở giữa dân sự của Ngài.
[9]
Ma-thi-ơ viết cho độc giả Do-thái trình bày tư tưởng về sự cư trú và hiện diện
liên tục của Đức Chúa Trời giữa loài người mặc dầu không sử dụng từ Shekinah trong bản văn của mình. Phao-lô
cũng dùng quan niệm liên hệ, doxa hay
vinh hiển, chỉ về sự biểu lộ hay bày tỏ của Shekinah.
Trong sách Phúc Âm Giăng, bốn lần tác giả sử dụng động từ eskēnōsen hay danh từ skene.