“12Vì lời của Đức Chúa Trời là lời sống
và linh nghiệm, sắc hơn gươm hai lưỡi, thấu vào đến đỗi chia hồn, linh, cốt, tủy,
xem xét tư tưởng và ý định trong lòng. 13Chẳng có vật nào được giấu
kín trước mặt Chúa, nhưng hết thảy đều trần trụi và lộ ra trước mắt Đấng mà
chúng ta phải thưa lại” (Hê-bơ-rơ 4:12-13)
Dẫn nhập:
Sử dụng lối diễn đạt theo thể
văn thơ rất hàm súc, tác giả thư Hê-bơ-rơ mô tả sự hành động của Lời Đức Chúa
Trời liên quan đến tấm lòng con người trong câu 12 và 13 của chương 4. Hai câu
kinh văn này rất quen thuộc trong Hội Thánh và thường được sử dụng khá phổ biến
để nói đến tác dụng của Kinh Thánh là Lời của Đức Chúa Trời. Nhưng thực sự đôi
khi có thể khiến cho người nghe hiểu sai ý nghĩa xác thực của nó. Thế thì, cụm
từ “Lời của Đức Chúa Trời” được hiểu là gì trong toàn bộ thư Hê-bơ-rơ và đặc biệt
trong câu 12?
Có một số lời giải thích về ý
nghĩa của cụm từ này như sau: (a) Kinh Cựu ước vì tác giả sách Hê-bơ-rơ trích
nhiều kinh Cựu Ước (bản LXX) hơn các sách khác trong toàn bộ kinh Tân ước; (b) Kinh
Thánh nói chung (bao gồm một số bản văn trong Tân Ước hiện hành lúc bấy giờ);
(c) Lời của Đức Chúa Trời trong kinh Cựu ước được Chúa Jesus nhắc lại; (d) lời
dạy của các sứ đồ về thân vị và công việc của Chúa Cứu Thế Jesus, thường được gọi
là “Phúc Âm.” Do khám phá ra những điểm tương đồng giữa Hê-bơ-rơ 4:12 và
Cô-lô-se 1:25-26, Gerhard Kittel cho rằng nội dung của cụm từ “Lời của Đức Chúa
Trời” xuất hiện trong suốt toàn bộ kinh Tân ước là sự hỗn hợp giữa kinh Cựu ước
và kinh Tân ước, trở thành “Lời hiệp nhất của Đức Chúa Trời” (unified Word of
God). Vì thế, khó có thể xác định được ý nghĩa của cụm từ này trong thư
Hê-bơ-rơ là kinh Cựu ước hay sứ điệp Cơ đốc của hội thánh thời kỳ ban đầu (the
early Christian messasge).[1]
Trong toàn bộ kinh Tân Ước, cụm
từ “Lời của Đức Chúa Trời” (o` lo,goj tou/ qeou/) được đề cập 11 lần.[2] Riêng trong thư Hê-bơ-rơ,
cụm từ “Lời của Đức Chúa Trời” xuất hiện bốn lần (4:12; 6:5; 11:3; 13:7).[3] Tuy nhiên, muốn hiểu ý
nghĩa chính xác trong tư tưởng của tác giả thư Hê-bơ-rơ, chúng ta cần phân tích
một số chi tiết quan trọng được đề cập trong câu 12 của đoạn 4 nói riêng và
toàn thư Hê-bơ-rơ nói chung.
I.
Ý nghĩa của danh từ
“Lời” (lo,goj) trong
thư Hê-bơ-rơ
Tác giả thư Hê-bơ-rơ sử dụng
danh từ lo,goj tổng
cộng 12 lần.[4]
Việc sử dụng từ ngữ này được chia ra làm bốn nhóm ý nghĩa sau đây:
1.
Sứ điệp của Phúc
Âm được rao giảng hay dạy dỗ trong cộng đồng Cơ đốc thời kỳ đầu tiên (4:12; 5:13;
6:1; 13:7).
2.
Tiếng Đức Chúa Trời
phán trong Cựu ước được nhắc lại trong Tân ước (2:2; 4:2; 12:19).
3.
Câu chuyện, lời
ký thuật, hay lời báo cáo (4:13; 13:17).
4.
Lời nói, lời
tuyên bố, hay lời thề (5:11; 7:28; 13:22).
Đặc biệt, trong Hê-bơ-rơ
4:12-13 đề cập hai lần danh từ lo,goj. Hai từ đó có mang cùng một ý nghĩa như nhau không? Dựa
theo văn cảnh và cấu trúc văn phạm, chúng ta thấy hai từ có cùng ý nghĩa vì đều
chỉ về sứ điệp Phúc Âm. Người nghe Phúc Âm của Chúa (4:12) phải chịu hoàn toàn
trách nhiệm trước mặt Chúa về điều mình nghe (4:13).
Với cách sử dụng từ ngữ khá
bao quát, gồm nhiều lãnh vực khác nhau, chúng ta khó có thể xác định cách chắc
chắn ý nghĩa của cụm từ “Lời của Đức Chúa Trời” trong 4:12 nếu không quay sang
tìm hiểu những đặc điểm hay đặc tính của nó mà tác giả đã miêu tả cách rõ ràng
và cụ thể.
II.
Đặc tính của “Lời
của Đức Chúa Trời” (o` lo,goj tou/ qeou/) trong 4:12-13
Tác giả Hê-bơ-rơ đưa ra một số
đặc tính của “Lời của Đức Chúa Trời” như sau: “Vì lời của Đức
Chúa Trời là lời sống và linh nghiệm, sắc hơn gươm hai lưỡi, thấu vào đến đỗi
chia hồn, linh, cốt, tủy, xem xét tư tưởng và ý định trong lòng.”
Dựa vào những đặc điểm trên, Martin
Luther cho rằng Hê-bơ-rơ 4:12 là lời cảnh cáo cho những kẻ cứng lòng, xoay bỏ
Phúc Âm của Chúa Jesus Christ. Kết quả là họ nhận lấy sự phán xét và đoán phạt
của Đức Chúa Trời.[5]
Trên một phương diện, lời nhận định của Martin Luther đáng cho chúng ta chú ý.
Tuy nhiên, nếu nhìn vào văn cảnh của toàn bộ thư Hê-bơ-rơ, chúng ta thấy sứ điệp
của sách không chỉ nhằm mục đích cảnh báo mang tính chất hủy diệt và đoán phạt
nhưng còn mang tính chất chữa lành và khôi phục cho những tấm lòng chai cứng và
lãnh đạm đối với tiếng phán của Đức Chúa Trời. Làm thế nào để Lời của Đức Chúa
Trời có thể thực hiện được sứ vụ chữa lành và khôi phục cho tấm lòng băng hoại
và chai cứng của con người do tội lỗi gây ra? Điều này tìm thấy trong các đặc
tính của Lời của Đức Chúa Trời.
Các đặc tính của Lời của Đức
Chúa Trời được sắp xếp theo thứ tự từ “cạn đến sâu” nhằm diễn tả sự hành động
thẩm thấu của Lời của Chúa trong con người bề trong của người nghe. Để diễn tả
những đặc tính này, trong câu 12 tác giả sử dụng hai động từ ở thể phân từ,[6] và một số tĩnh từ theo sau
mỗi động từ phân từ: (a) “Lời của Đức Chúa Trời là lời sống và linh nghiệm,
sắc hơn gươm hai lưỡi”; và (b) “thấu vào chia hồn, linh, cốt, tủy, xem
xét tư tưởng và ý định trong lòng.”
1.
Lời sống (zw/n) – Nó có nghĩa
là Lời của Đức Chúa Trời là Lời ban sự sống (life-giving Word), và qua Lời đó
con người chết trong tội lỗi nhận được sự sống của Đức Chúa Trời trong Chúa Cứu
Thế Jesus. Sự sống lưu xuất từ Đức Chúa Trời vì Ngài là Đức Chúa Trời hằng sống
(3:12; 9:14; 10:31; 12:19, 22), và sự sống đó đến với con người qua mối liên hệ
với Chúa Jesus Christ (7:25; 10:20). Đây không phải là lời của văn tự nhưng là
lời của Thần Linh, vì “chữ làm cho chết còn Thánh Linh làm cho sống” (2
Cô-rinh-tô 3:6b).[7]
Lời này chính là Chúa Jesus Christ.[8]
Lời linh nghiệm
(evnergh.j)[9] – Sự linh nghiệm của Lời của
Đức Chúa Trời là đặc tính sự sống của Lời Ngài. Vì là sống nên linh nghiệm. Sự
linh nghiệm minh chứng cho bản chất sự sống của Lời của Đức Chúa Trời. Đức Chúa
Trời hằng sống nên Lời của Ngài linh nghiệm đời đời. Sự linh nghiệm là sự biểu
lộ của bản tánh và công việc của Ngài. Lời đó chính là thân vị của Ngài.
Lời sắc hơn gươm hai lưỡi (ma,cairan di,stomon).[10] Tác giả Hê-bơ-rơ không
nói Lời của Đức Chúa Trời là “gươm hai lưỡi” nhưng ông so sánh tính chất sắc
bén của Lời của Đức Chúa Trời hơn bất cứ loại “gươm hai lưỡi” nào khác.[11] Tính chất sắc bén là một
đặc tính khác của Lời sống. Con dao nằm trong tay của bác sĩ phẫu thuật dùng để
chữa trị đã là sắc bén, thì Lời của Đức Chúa Trời còn sắc bén hơn nhiều vì đó
là Lời sống.
2.
Vì linh nghiệm và
sắc bén, Lời của Đức Chúa Trời có thể đâm vào và phân chia con người bề trong:
“hồn, linh, cốt, tủy, xem xét tư tưởng và ý định trong lòng.” Tác giả Hê-bơ-rơ
sử dụng ba cặp từ ngữ để diễn tả con người bề trong: “hồn và linh,” “cốt và tủy,”
và “tư tưởng và ý định” trong lòng. Trong thư Hê-bơ-rơ đề cập đến “tấm lòng” 11
lần.[12] Có hai loại tấm lòng được
nói đến: (a) tấm lòng cứng cỏi, chai lì đối với tiếng phán của Chúa; và (b) tấm
lòng được đổi mới, được cắt bì trở thành lòng chân thật, được rửa sạch bởi huyết
Chiên Con, được ghi tạc bằng luật pháp của Chúa.[13]
Hê-bơ-rơ 3:7
chép: “Ngày nay nếu các ngươi nghe tiếng Ngài...” Tiếng Chúa ở đây chính là “Lời
của Đức Chúa Trời” trong 4:12. Động từ “nghe” trong Công vụ 2:37 và Hê-bơ-rơ
3:7 là cùng một từ. Việc nghe Lời của Đức Chúa Trời tác động trong tấm lòng của
họ: “Chúng nghe bấy nhiêu lời, trong lòng như kim châm” (Công vụ 2:37 BNC). Khi
dùng động từ “[đâm] thấu vào,” tác giả Hê-bơ-rơ muốn nói đến Lời của Đức Chúa Trời
cáo trách “như kim châm” và phân xử tận sâu thẳm bên trong, dẫn đến sự ăn năn. Lời
của Chúa phơi bày con người bề trong bao gồm tâm trí và tấm lòng để dẫn đến sự
biến đổi và làm nên mới.
3.
Lời của Đức Chúa
Trời phơi bày mọi sự trần trụi ra trước mặt Chúa (c. 13). Câu “Chẳng có vật nào được giấu kín trước mặt Chúa, nhưng hết thảy đều
trần trụi và lộ ra trước mắt Đấng” miêu tả hình ảnh một bịnh nhân trong phòng mổ
của thời cổ Hi-lạp: bị căng bằng dây tời và nằm trần trụi trước mắt bác sĩ và dưới
ngọn dao hai lưỡi sắc bén trong tay vị bác sĩ, sẵn sàng cho cuộc giải phẫu.
Trong Hê-bơ-rơ 4:12-13 tác giả Hê-bơ-rơ dùng ngôn ngữ ẩn dụ rút ra từ lãnh vực
y khoa của thế kỷ thứ nhất, miêu tả tiến trình giải phẫu với mục đích phơi bày
những gì không lành mạnh, hầu chữa lành và làm cho bịnh nhân trở nên khỏe mạnh
và trọn lành.
Tại sao tác giả Hê-bơ-rơ đề cập
đến Lời của Đức Chúa Trời ở đây (4:12, 13)? Sau khi lấy hình ảnh của dân sự
ngày xưa cứng lòng, từ khước tiếng phán của Chúa cho nên họ không được vào được
sự yên nghỉ (3:7-4:10), tác giả mạnh dạn đưa ra lời kêu gọi “hãy gắng sức vào sự
yên nghỉ” vì Lời của Đức Chúa Trời sẽ mang lại kết quả tốt lành cho những kẻ cứng
lòng như thế nào. Chính Lời của Đức Chúa Trời là phương tiện duy nhất giải quyết
sự cứng cỏi của tấm lòng con người và mang đến cho họ “sự cắt bì” trong lòng. “Cắt
bì lòng” là ý tưởng quan trọng trong Kinh Thánh mô tả mối liên hệ giao ước trọn
vẹn của dân sự với Đức Chúa Trời. Lời của Đức Chúa Trời sẽ cắt bì lòng và khiến
cho họ yêu Chúa với tất cả tâm thần, linh hồn, và thân thể (Phục truyền 30:6).
Ngôn ngữ của “sự cắt bì” trong lòng cũng được tìm thấy trong tiên tri Giê-rê-mi
(4:4; 9:25-26) và được ứng dụng trong Hê-bơ-rơ (4:12-13). Trong Kinh Tân-ước,
tư tưởng “cắt bì lòng” được xem là điều kiện biến Cơ đốc nhân trở thành “người
Do-thái chân thật.” Vì thế, một số giáo phụ của Hội Thánh cũng đã viện dẫn sự
hành động của Lời của Đức Chúa Trời trong Hê-bơ-rơ 4:12-13 như là cuộc giải phẫu
thuộc linh gọi là “sự cắt bì trong lòng” (circumcision of the heart)[14]
Kết luận:
Nhân vật chính trong thư
Hê-bơ-rơ mà tác giả muốn trình bày chính là Chúa Jesus. Ngài trổi hơn thiên sứ,
con người, Môi-se, Giô-suê, và ngay cả thầy tế lễ thượng phẩm A-rôn. Chúa Jesus
là câu giải đáp cho sự thất bại do sự cứng lòng của dân sự Đức Chúa Trời trong
Cựu Ước. Chỉ có Lời của Đức Chúa Trời mới có thể phơi bày cho họ thấy tình trạng
thuộc linh của chính họ và “giải phẫu” tấm lòng của họ để họ được chữa lành tức
được cứu. Vì thế cụm từ “Lời của Đức Chúa Trời” được tác giả thư Hê-bơ-rơ nói đến
không gì khác hơn chính là Chúa Cứu Thế Jesus, Đấng được xưng là Ngôi Lời trở
nên xác thịt (Giăng 1:14),[15] tiếng phán tối hậu của Đức
Chúa Trời cho thế giới hư mất này (Hê-bơ-rơ 1:2). Chỉ trong một mình Chúa Jesus,
con người tìm thấy được sự chữa lành và được ban cho tấm lòng mới. Ngài có thể
thay thế “tấm lòng bằng đá” bằng “tấm lòng bằng thịt,” “lòng chưa được cắt bì” bằng
“lòng được cắt bì.” Lời của Đức Chúa Trời không nhằm mục đích làm thỏa mãn tri
thức nhưng mang đến sự thay đổi toàn bộ con người bề trong gọi là sự tái sanh. Như
sứ đồ Phi-e-rơ nói “bởi Lời đó [lo,goj] mà anh em chị em được sanh lại” (1 Phi-e-rơ 1:23).
Nhưng lời đó là lời được rao giảng [r`h/ma] bởi các sứ giả của Ngài (1 Phi-e-rơ 1:25). Đó chính
là sứ điệp của Phúc Âm, lời của Đức Giê-hô-va trong Cựu ước được hoàn nghiệm
trong Tân ước trong thân vị và công tác cứu chuộc của Chúa Cứu Thế Jesus. Không
có Lời rao giảng sứ điệp Phúc Âm của sứ giả thì sự thay đổi tấm lòng con người chẳng
bao giờ xảy ra. Tuy nhiên, sứ điệp về “sự cắt bì lòng” phải được rao giảng từ
môi miệng và tấm lòng chịu cắt bì thật bởi Lời của Đức Chúa Trời. Sứ điệp quan
trọng và cao quý thể nào thì sứ giả rao giảng sứ điệp càng phải cẩn trọng và
theo đuổi sự thánh thiện trong nếp sống hằng ngày thể ấy. Chính vì thế, chức vụ
công bố Phúc Âm của Chúa Cứu Thế Jesus là một chức vụ không thể khoan nhượng và
pha trộn bởi bất cứ thứ đạo lạc nào, bởi lối sống bất khiết, nhưng phải là chức
vụ cao trọng, tinh tuyền, và thánh thiện nhất mà Đức Chúa Trời đã ký thác cho
loài người sa ngã và ấn chứng họ bằng sự xức dầu của Thánh Linh Ngài. Bằng
không, chức vụ đó chỉ thuần sáo ngữ, mang đến sự chết chóc tâm linh. Nguyền xin
ân sủng và sự thương xót của Đức Chúa Trời Ba Ngôi bao phủ chúng ta là những
con người được Ngài kêu gọi và ký thác cho thánh chức cao quý này.
Mục sư Trần Trọng Nha
Viện Thần Học Liên Hiệp
Garden Grove, CA
[1]
Gerhard Kittel, “Le,gw, lo,goj, r`h/ma,
lale,w,” in TDNT (10 volumes; ed.
Gerhard Kittel; translated by Geoffrey Bromiley [Grand Rapids: Eerdmans, 1967])
IV:112-113.
[2] Lu-ca 8:11; Giăng 10:35; Công vụ 6:7; 17:13; Rô-ma
9:6; 1 Cô-rinh-tô 14:36; 2 Ti-mô-thê 2:9; Tít 2:5; Hê-bơ-rơ 4:12; 1 Giăng 2:14;
Khải-huyền 19:13.
[3]
Tác giả thư Hê-bơ-rơ sử dụng hai từ khác nhau để chỉ về “Lời của Đức Chúa Trời.”
Trong 4:12 và 13:7, tác giả dùng cụm từ o` lo,goj
tou/ qeou/ để nói đến nội dung Lời
của Chúa (nhấn mạnh đến chính Lời của Chúa hơn là tác động hay hiệu năng do Lời
của Chúa mang lại qua sự rao giảng). Trong 6:5 và 11:3, tác giả dùng cụm từ r`h/ma qeou/
để nói đến Lời của Chúa được công bố (nhấn mạnh đến sự tác động hay hiệu năng
khi Lời Chúa được rao giảng). Như thế, chúng ta có hiểu lời r`h/ma [rhēma] là lời được rao giảng (verbal word) của lời lo,goj [logos] là Lời nhập thể
(incarnated Word), bởi sứ giả của Đức Chúa Trời. Theo nghĩa hạn hẹp trong thư
Hê-bơ-rơ, Lời nhập thể chính là Chúa Jesus, nội dung của Phúc Âm hay Tin Lành của
Chúa Jesus Christ.
[4]
Hê-bơ-rơ 2:2; 4:2, 12, 13; 5:11, 13; 6:1; 7:28; 12:19; 13:7, 17, 22.
[5]
Martin Luther, “Lectures on Hebrews,” in
Luther’s Works; translated by Walter
A. Hanson; edited by Jaroslav Pelikan (St. Louis: Concordia Publishing House,
1968), 29:165.
[7]
Richard A. Lammert hiểu Lời của Đức Giê-hô-va (YHWH) trong Kinh Cựu Ước chính
là thần hiển hiện (theophany); nghĩa là, trong những lần Lời của Chúa phán được
ghi lại trong Kinh Cựu Ước, chúng không chỉ là tiếng phán đơn thuần của Ngài
nhưng chính là Thân Vị của Đấng Christ. Nói cách khác, Lời của Đức Giê-hô-va
không gì khác hơn chính là Chúa. (“The Word of YHWH as Theophany,” Concordia
Theological Quarterly 73
[2009]: 195-210). Ý tưởng này minh họa và phù hợp với tư tưởng “Lời của Đức
Chúa Trời” trong Hê-bơ-rơ 4:12.
[8] Trong Cô-lô-se 1:25-27, sứ đồ Phao-lô nói “Lời của Đức Chúa Trời” (o` lo,goj tou/ qeou/) chính là Đấng Christ, trọng tâm của
sứ điệp ông rao giảng. Sự mầu nhiệm của Đức Chúa Trời giấu kín trải qua các đời,
nay được bày tỏ: “Đấng Christ ở trong anh em.” Trong Khải huyền 19:13, sứ đồ
Giăng dùng cụm từ “Lời của Đức Chúa Trời” trực tiếp chỉ về Đấng Christ (to. o;noma auvtou/ o` lo,goj tou/ qeou/).
[9]
Từ này được sứ đồ Phao-lô dùng nói lên sự hiệu nghiệm của đức tin xảy ra bên
trong lòng được biểu lộ ra trong hành động bên ngoài, khiến người khác có thể
nhận biết được (Phi-lê-môn 6).
[10]
Trong Kinh Thánh, có hai từ được dùng chỉ về gươm: (a) ma,caira
là loại gươm, đúng ra là dao (short dagger/knife) dùng trong việc dâng của
tế lễ (Sáng 22:6), làm phép cắt bì
(Giô-suê 5:2, 3; 24:31); và các thầy ra-bi Do-thái dùng để lột vỏ trái cây hay
nấu ăn. Đây cũng là loại dao phẫu thuật của bác sĩ dùng để mổ xẻ chữa trị bịnh
nhân. Trong Hê-bơ-rơ tác giả đề cập đến loại gươm này như là phương tiện của sự
bách hại Cơ đốc nhân (11:34, 37); và (b) r`omfai,a
là gươm (sword) của lính dùng trong chiến trận khi đánh giặc hay trong việc xử
án.
Có hai loại “gươm hai lưỡi” khác nhau được đề cập
trong Kinh Thánh. Trong Các Quan Xét 3:16 và Châm ngôn 5:4 dùng cụm từ “gươm
hai lưỡi” (ma,cairan di,stomon) để
chỉ về gươm của sự tàn diệt. Nhưng trong Thi-thiên 149:6; Sirach 21:3; Khải huyền 1:16; 2:12
dùng cụm từ “gươm hai lưỡi” (r`omfai,a di,stomoj)
để nói đến gươm của sự báo thù và liên quan đến lời nói (miệng).
[11] Trong Ê-phê-sô 6:17, Phao-lô ví sánh “Lời của Đức
Chúa Trời” như là “gươm của Thánh Linh” (ma,cairan
tou/ pneu,matoj( o[ evstin r`h/ma qeou/).
Tuy nhiên, ý tưởng trong Hê-bơ-rơ và Ê-phê-sô hoàn toàn khác nhau về ý nghĩa lẫn
hình thức. Trước hết, trong Hê-bơ-rơ dùng từ lo,goj để chỉ về “Lời của Đức Chúa Trời” trong hình thức
thân vị; trong Ê-phê-sô dùng từ r`h/ma để chỉ về “Lời của Đức Chúa Trời” được công bố hay
rao giảng. Kế đến, tác giả Hê-bơ-rơ ứng dụng Lời của Đức Chúa Trời cho Cơ đốc
nhân; trong Ê-phê-sô Phao-lô nói đến việc sử dụng Lời của Đức Chúa Trời để đối
phó với kẻ thù là ma quỷ và vua chúa của thế gian mờ tối tăm nầy.
[12]
Hê-bơ-rơ 3:8, 10, 12, 15; 4:7, 12; 8:10; 10:16, 22 (2x); và 13:9.
[13]
Trong thư Hê-bơ-rơ tác giả phân chia rõ rệt hai loại tấm lòng. Từ 4:12 trở về
trước, tác giả nói đến tấm lòng chai lì, cứng cỏi, thách thức và thử nghiệm Đức
Chúa Trời. Nhưng sau khi có Lời của Đức Chúa Trời xử lý con người bề trong
(4:12), tấm lòng được thay đổi trở nên thật thà, nhu mì, thanh sạch. Như thế,
chính Lời của Đức Chúa Trời đã biến tấm lòng bằng đá trở thành tấm lòng bằng thịt.
Chúng ta cần lưu ý đó là lý do tại sao tác giả thư Hê-bơ-rơ hai lần trích dẫn
Giê-rê-mi 31:31-34 (trong Hê-bơ-rơ 8:10-13; 10:16-17) nói đến việc Đức Chúa Trời
thiết lập giao ước mới với dân sự của Ngài bằng cách ghi tạc Lời của Ngài trong
lòng của họ.
[14]
Justin Martyr so sánh giữa Chúa Jesus, Đấng ban sự yên nghỉ cho dân sự, và
Giô-suê, người không thể ban cho dân sự của ngài sự yên nghỉ; và Chúa Jesus cắt
bì tất cả những ai Ngài muốn với dao bằng đá (Dialogue with Trypho 24). Nhiều giáo phụ theo quan điểm của Justin,
nhấn mạnh chức vụ “cắt bì lòng” của Chúa Jesus.
[15]
Có thể hiểu theo phương diện nghĩa bóng, “gươm hai lưỡi” tiêu biểu cho hai bản
tánh của Chúa Jesus Christ: thần tánh và nhân tánh.